Nguồn gốc của pháp luật là gì? Nguồn gốc, bản chất và thuộc tính

Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp, chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về pháp luật. pháp luật. Căn cứ vào nguồn gốc của pháp luật, căn cứ vào điều kiện xã hội đương thời của các thời kỳ mà chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa chính xác nhất về pháp luật. Vì vậy, bài viết dưới đây sẽ xem xét nguồn gốc, bản chất và các thuộc tính của pháp luật để giải thích rõ nhất thuật ngữ pháp luật là gì?

Tổng đàiLuật sưTrực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Nguồn gốc của pháp luật là gì?

Trong lịch sử phát triển của loài người, có một thời kỳ không có pháp luật, đó là thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy. Trong xã hội này, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo ra trật tự, ổn định xã hội, người nguyên thủy đã sử dụng các quy phạm xã hội, đó là phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo. Các chuẩn mực xã hội dưới chế độ cộng sản nguyên thủy có các đặc điểm sau: thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội và bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong xã hội; chúng là quy tắc xử sự chung của toàn xã hội; chúng là những quy tắc ứng xử ; chúng được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng có sự cưỡng bức, nhưng không phải do một tổ chức quyền lực đặc biệt tổ chức mà do toàn xã hội đồng sáng tạo.

Các phong tục, tín ngưỡng tôn giáo thời bấy giờ là những quy tắc ứng xử rất phù hợp để điều chỉnh các quan hệ xã hội, vì nó phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế – xã hội của chế độ. Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy, theo tính chất khép kín của tổ chức thị tộc, giáo phái và bộ lạc. Khi sở hữu tư nhân xuất hiện và xã hội được phân chia thành các giai cấp, những chuẩn mực xã hội đó trở nên không còn phù hợp. Trong điều kiện xã hội mới, chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành các giai cấp đối lập, tính khép kín của xã hội bị phá vỡ, các chuẩn mực phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích chung không còn được áp dụng. Trong điều kiện lịch sử mới, xã hội cần những quy phạm xã hội mới để thiết lập “trật tự” xã hội, quy phạm mới này phải phản ánh ý chí của giai cấp thống trị và đáp ứng nhu cầu của giai cấp thống trị. Điều này đòi hỏi luật phải xuất hiện khi thời gian yêu cầu.

Trong giai đoạn đầu, giai cấp thống trị cố gắng thao túng các phong tục có nội dung phục vụ lợi ích giai cấp của họ, cải biến chúng và thông qua nhà nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước Việt Nam thời hưng vương-an đại vương không có luật thành văn, hình thức pháp luật lúc bấy giờ chủ yếu là tập quán Pháp. Ngoài ra, nước này còn nhanh chóng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, nếu chỉ dùng phong tục cải biến để điều chỉnh các quan hệ xã hội thì trong xã hội chưa được điều chỉnh sẽ làm nảy sinh nhiều quan hệ xã hội mới, vì vậy, để đáp ứng nhu cầu này, các phong trào lập pháp nhà nước ra đời. Hoạt động này lúc đầu rất đơn giản, có khi chỉ là quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính, sau đó được hoàn thiện dần với sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước. Vì vậy, có hai cách hình thành pháp luật: thứ nhất, nhà nước thừa nhận các chuẩn mực xã hội – phong tục tập quán biến chúng thành pháp luật; thứ hai, thông qua hoạt động lập pháp, các chuẩn mực mới được thiết lập.

Nguồn gốc của luật pháp Anh là “Origin of Law”.

2. Bản chất của pháp luật:

Luật pháp có nhiều phương pháp. Có trường phái luật tự nhiên, trường phái luật khẳng định, trường phái lịch sử luật, trường phái tâm lý pháp lý, trường phái xã hội học pháp lý, trường phái luật Mác – Lênin… Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. . .

Theo cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin: bản chất của pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai mặt – hai mặt cơ bản: mặt giai cấp và mặt xã hội, thường được gọi là tính giai cấp, trình độ và tính xã hội. Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau và là tất yếu khách quan.

Do những điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau nên việc thực hiện và thực hiện bản chất giai cấp, xã hội của pháp luật ở các loại hình quốc gia và trong các giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia là khác nhau.

Trong xã hội đương đại, tính xã hội và tính nhân văn ngày càng thể hiện rõ. Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý cần thiết của nhà nước mà còn là công cụ của mỗi cá nhân và của toàn xã hội.

– Thuộc tính giống luật

Bản chất giai cấp của pháp luật thể hiện ở ý chí dân tộc của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống văn bản pháp luật và hoạt động áp dụng pháp luật của quốc gia. Khi nói về pháp luật tư sản, Mác và Ăng-ghen đã viết: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được biến thành pháp luật, còn nội dung của ý chí này thì do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Nội dung của pháp luật, tức là ý chí của nhà nước, được quyết định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất, các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Cần nhìn nhận pháp luật một cách khách quan, toàn diện chứ không nên tuyệt đối hóa vai trò của các yếu tố kinh tế đối với pháp luật và đời sống quốc gia.

Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng dẫn các quan hệ xã hội phát triển theo mục tiêu, lộ trình phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và điều kiện khách quan của đất, nước. Tất nhiên, luật không phải là tổng hợp đơn giản của tất cả các lợi ích và nhu cầu của tất cả các cá nhân trong giai cấp thống trị, mà là các lợi ích điển hình, cơ bản và chọn lọc được nhà nước ban hành thành luật. “

Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng có tính thứ bậc chặt chẽ, nhưng phạm vi, phương thức thể hiện và thực hiện nó trên thực tế không hoàn toàn giống nhau ở các loại pháp luật khác nhau, kể cả trong một nhà nước, và trong các thời kỳ khác nhau. Luật chủ công khai xác định quyền lực tuyệt đối và vô hạn của chủ nô và sự bất lực của nô lệ với tư cách là “công cụ ngôn luận” của xã hội đương thời. Pháp luật phong kiến ​​vẫn bị coi là “đấm bốc”, các quy định và chế tài của nó rất tàn nhẫn và trắng trợn bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Pháp luật tư sản tuy có tiến bộ và phát triển so với các pháp luật trước đó về nội dung và hình thức nhưng nó vẫn là công cụ chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Trong thế giới hiện đại, nhà nước và pháp luật tư sản buộc phải thích nghi với những điều kiện mới. Cần có sự đánh giá khách quan, toàn diện về nhà nước và hoạt động của hệ thống pháp luật tư sản. Vì vậy, những yếu tố tích cực của tiến bộ cần được nghiên cứu và kế thừa có chọn lọc.

Xem Thêm : Hack kim cương Play Together Đơn Giản Cho Android và iOS

– Tính xã hội của pháp luật

Khía cạnh thứ hai trong bản chất của pháp luật là khía cạnh xã hội. Có nghĩa là, pháp luật không chỉ là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và bảo vệ lợi ích mà còn là mục đích ổn định và phát triển xã hội, là công cụ để ghi nhận và bảo vệ lợi ích của các giai cấp và xã hội khác. Strata. Phù hợp với giai cấp thống trị. Tính xã hội là thuộc tính khách quan, tất yếu và phổ biến của mọi quốc gia và pháp luật. Nếu không quan tâm đúng mức đến bản chất xã hội của hoạt động nhà nước và hệ thống pháp luật thì ở mức độ và hình thức nhất định sẽ có nhiều tác động tiêu cực đến quá trình quản lý xã hội của các nhà lãnh đạo nhà nước. nước.

Xu thế dân chủ hóa, đòi hỏi tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội, luôn là mối quan tâm của các nhà lập pháp. Một hệ thống pháp luật tốt và hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết tốt nhất lợi ích cá nhân so với lợi ích cộng đồng và xã hội. Các quốc gia luôn bị áp lực xã hội buộc phải sửa đổi, bổ sung, ban hành hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, ngày càng có nhiều vấn đề xã hội phức tạp không ngừng nảy sinh và luôn đặt lên vai đất nước phải suy nghĩ và giải quyết.

Mức độ thể hiện và thực hiện bản chất xã hội của các loại quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Nó phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố khách quan và chủ quan, như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống đạo đức, phong tục tập quán; mối quan hệ giữa các lực lượng giai cấp, xã hội, tôn giáo và dân tộc; xu thế phát triển của đất nước và quốc tế, các yếu tố chủ quan khác. …. Chẳng hạn, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa mọi lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải có những cải cách lớn về pháp luật, nhất là về công khai, minh bạch, công nhận và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người.

Ví dụ, pháp luật của các nước phong kiến ​​trước đây chủ yếu bảo vệ lợi ích của nhà nước và giai cấp địa chủ, ngược lại với lợi ích của người lao động. Ngoài ra, pháp luật phong kiến ​​còn có những quy định ít liên quan đến lợi ích của nhóm người yếu thế như nông dân. Ví dụ điển hình nhất là Luật Nhà lê ở Đức. Bản chất của nhà nước pháp luật hình sự là giai cấp và xã hội, bảo vệ sự thống trị của giai cấp phong kiến ​​và trật tự xã hội phong kiến; đồng thời công nhận và bảo vệ quyền lợi của nông dân và những người lao động khác, phụ nữ, trẻ em, người già và người tàn tật.

Cũng giống như đạo đức, pháp luật có vai trò và giá trị xã hội to lớn trong mọi giai đoạn phát triển của loài người, nhưng ở một mức độ nhất định. Đời sống con người và các quan hệ xã hội mà con người tham gia đòi hỏi phải thiết lập sự ổn định và trật tự, được đảm bảo bằng các hệ thống quy tắc xã hội như đạo đức, phong tục, pháp luật… Quy phạm pháp luật là kết quả của sự lựa chọn lâu dài. , bản thân các quy phạm pháp luật cũng là Quy phạm. Những hành vi hợp lý, khách quan được trải nghiệm, thử nghiệm và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cuộc sống, nhiều hành vi bắt nguồn từ xã hội có giai cấp trước, do nhà nước “lựa chọn”, cộng với quan điểm và lợi ích của họ, được “nâng cấp” thông qua quy phạm pháp luật nhất định. thủ tục và hình thức ” đối với pháp luật.

Với tư cách là quy tắc xử sự, pháp luật không chỉ có vai trò định hướng mà còn có vai trò đánh giá, kiểm tra, thử nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội. Đồng thời, pháp luật còn là công cụ ghi lại các quá trình xã hội, ý thức xã hội, hướng dẫn hoạt động xã hội theo những tiêu chuẩn và mục đích nhất định. Hiểu đúng về vai trò của pháp luật và giá trị xã hội. Marx viết: “Pháp luật phải đặt nền tảng cho xã hội, pháp luật phải là sự thể hiện những lợi ích và nhu cầu chung của xã hội, và “ngay khi pháp luật không còn phù hợp với xã hội, thì nó trở thành một mớ hỗn độn”. , phổ biến. Công nghệ pháp lý dựa trên sự hiểu biết khoa học về các quan hệ xã hội nhằm xử lý đúng đắn, hợp lý những cái chung, khuôn mẫu và cái riêng trong văn bản quy phạm pháp luật, làm cho văn bản quy phạm pháp luật dễ hiểu, dễ áp ​​dụng vào cuộc sống. Chúng ta đang rơi vào tình trạng có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện. Chủ trương chung là khắc phục tình trạng này và giảm số lượng văn bản hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì vậy, các văn bản quy phạm pháp luật buộc phải hoàn thiện, pháp luật phải mang tính phổ cập, dễ hiểu, có thể áp dụng và áp dụng được.

Pháp luật là một hiện tượng văn hóa không chỉ của một quốc gia mà còn của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Các mối quan hệ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, v.v. v… Luôn có những điểm tương đồng trong nhiều nền văn hóa. Vì vậy, để hiểu pháp luật đầy đủ và toàn diện hơn, cần đề cập đến các đặc trưng khác của pháp luật ngoài tính giai cấp, tính xã hội như tính dân tộc, tính mở, tính nhân văn, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. Một hệ thống pháp luật tốt được người dân chấp nhận phải thể hiện được các yếu tố như tinh thần dân tộc, truyền thống văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục. Đồng thời, pháp luật quốc gia phải là hệ thống pháp luật mở, tiếp nhận thành quả văn hóa pháp lý của con người bằng tinh thần và khả năng, nhất là trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Tính khép kín của văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật, đã trở thành một xu thế tất yếu trong thế giới hiện đại. Thay đổi là cần thiết để tồn tại trong môi trường quốc tế hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và các bên cùng có lợi, đây là con đường duy nhất cho mọi quốc gia, mọi dân tộc.

3.Bản chất của pháp luật:

a) Khái niệm thuộc tính pháp lý

Tính chất là dấu hiệu cụ thể của sự vật, hiện tượng. Mặc dù nhà nước và pháp luật có mối quan hệ biện chứng và khách quan, nhưng mỗi hiện tượng xã hội cũng có những thuộc tính đặc trưng của nó, bởi vì hai hiện tượng xã hội này có đời sống riêng và có tính độc lập như nhau.

Do đó, thuộc tính của pháp luật là dấu hiệu đặc trưng riêng của pháp luật, là tiêu chí để phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác và các loại quy phạm xã hội khác như đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm xã hội, chính trị, v.v. . tổ chức v.v. Thuộc tính cơ bản của pháp luật là sự thể hiện quyền năng và ưu điểm của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh các quan hệ. xã hội.

Pháp luật có những tính chất cơ bản sau: tính quy phạm chung, tính bắt buộc phổ biến, tính chặt chẽ về hình thức; tính do nhà nước đảm bảo.

b) Các thuộc tính cơ bản của pháp luật

– Thuộc tính đầu tiên: thông số chung, bắt buộc

Xem Thêm : Tổng hợp giá cấy que tránh thai chính xác nhất hiện nay – Docosan

Pháp luật trước hết biểu hiện với tư cách là quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự, có giá trị là khuôn mẫu hành vi, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hành vi của cá nhân, quá trình xã hội. Trên thực tế, không chỉ pháp luật có tính quy phạm mà các loại công cụ khác điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng có tính quy phạm như đạo đức, phong tục tập quán, pháp luật tôn giáo…

Tuy nhiên, tính hợp pháp của pháp luật có tính phổ biến và tính cưỡng chế phổ biến. Quy phạm pháp luật có các thuộc tính như tính quy phạm chung và tính cưỡng chế phổ biến, khác với các quy phạm xã hội khác như tập quán, điều lệ tổ chức xã hội. Về nguyên tắc, tập quán chỉ có giá trị bắt buộc áp dụng ở nhiều nơi, còn các chuẩn mực của các tổ chức xã hội cũng chỉ giới hạn đối với các thành viên của các tổ chức này. Tính phổ biến, bắt buộc của pháp luật được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật tương ứng. Các định luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Quy định này chỉ chấm dứt áp dụng nếu bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc hết hiệu lực.

Tính quy phạm bắt buộc phổ biến của pháp luật bắt nguồn từ quyền lực của nhà nước, là cơ quan đại diện chính thức của toàn xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức cư trú trên lãnh thổ quốc gia đều phải tuân theo pháp luật, kể cả người nước ngoài và người không quốc tịch.

– Thuộc tính thứ hai: Sự nghiêm khắc về hình thức

Điều này cho thấy, quy phạm pháp luật được thể hiện trong hiến pháp, quy định, nghị quyết, quy chế, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác với tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý nhất định, ngôn ngữ pháp lý trong quy phạm pháp luật cũng có những đặc điểm riêng. Nó có đặc điểm riêng, ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp, không có hình tượng nghệ thuật, ẩn dụ, ví von… bảo đảm tính phổ thông, dễ hiểu, dễ áp ​​dụng, tránh đa nghĩa.

Pháp luật được thể hiện bằng văn bản, còn các quy phạm xã hội khác có thể được thể hiện dưới dạng thành văn hoặc bất thành văn, chẳng hạn như phong tục tập quán luôn được thể hiện dưới dạng bất thành văn. Một trong những nhiệm vụ đổi mới công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội là làm cho các luật được ban hành phải “cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện”.

So với nhiều loại quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính chính xác cao hơn, thể hiện ở chỗ quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ pháp lý và chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm. Định nghĩa pháp lý rõ ràng, chặt chẽ để đảm bảo nguyên tắc “bất cứ ai trong những điều kiện này không thể làm gì khác”. Tính đúng đắn của pháp luật giúp hiểu rõ những gì được phép, những gì phải làm và những gì bị cấm, trên cơ sở đó các cá nhân được tự do hành động và lựa chọn cho mình cách ứng xử, kể cả trong trường hợp có hành vi sai trái Các biện pháp xử lý dự kiến, không tuân thủ với các yêu cầu pháp lý.

Các quy định pháp luật không rõ ràng, khó hiểu, mâu thuẫn, chồng chéo dù được hiểu rõ ràng sẽ có nguy cơ vi phạm nguyên tắc pháp luật thống nhất, xâm phạm quyền và lợi ích của người dân, của công dân. Vì vậy, việc sử dụng các phương pháp và công nghệ pháp lý tiên tiến, thiết thực được coi là một trong những yêu cầu cơ bản để hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu của quốc gia. cai trị bằng pháp luật.

– Thuộc tính thứ ba: Hiệu suất trạng thái được đảm bảo

Pháp luật có nguồn gốc từ nhà nước và do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa nhận nên pháp luật được nhà nước thực hiện thông qua các phương tiện, biện pháp của nhà nước. Nhà nước đảm bảo việc thực hiện luật và các quy định bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục, kinh phí, tổ chức kỹ thuật và các phương tiện khác.

Các loại chuẩn mực xã hội khác cũng được đảm bảo thông qua các biện pháp, phương thức nhất định. Các chuẩn mực và lý tưởng đạo đức được thực thi thông qua các chế tài “nội” và “ngoại”, tức là lương tâm cá nhân, sự tự nhận thức và dư luận xã hội. Vi phạm thuần phong mỹ tục cũng sẽ bị dư luận lên án và bị lương tâm dày vò, nên trong cuộc sống, có khi người ta không đăng ký kết hôn nhưng ít ai dám bỏ qua nghi thức phong tục địa phương. Không thể thực hiện các biện pháp cưỡng chế – chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm các chuẩn mực xã hội khác.

Làm rõ thuộc tính này của pháp luật và chỉ ra những đặc điểm, ưu điểm riêng của pháp luật, khác với các loại pháp luật điều chỉnh hành vi xã hội, quan hệ xã hội. Nhưng điều này không có nghĩa là phóng đại vai trò của pháp luật và đánh giá thấp sức mạnh của các loại quy tắc xã hội khác. Thực tiễn sinh động cho thấy, phải điều chỉnh các quy tắc xã hội như đạo đức, phong tục để hướng thiện, liêm chính, dẹp ác là điều cấp thiết. Một công cụ mạnh mẽ, một loại vắc-xin đặc biệt có thể chữa khỏi mọi bệnh tật. xã hội học.

Trong điều kiện hiện nay, trong các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật của quốc gia, cần đặc biệt chú ý đến các biện pháp như tổ chức triển khai, hướng dẫn thực hiện và cơ chế đồng bộ, phối hợp. Chỉ dựa vào các chế tài do pháp luật quy định và việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra vi phạm chưa hình thành nên sức mạnh và hiệu lực của pháp luật. Ngoài các biện pháp nhà nước, pháp luật phải được thực thi thông qua các biện pháp xã hội khác và ý thức đạo đức, pháp luật của công dân.

Trên đây là ba thuộc tính đặc trưng cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, nếu nhìn ở góc độ rộng hơn, pháp luật còn có các thuộc tính khác như tính hệ thống hóa, tính ổn định, tính dự báo. Việc nghiên cứu rộng hơn các thuộc tính khác như tính hệ thống và tính ổn định tương đối cũng rất cần thiết để hiểu pháp luật một cách toàn diện và có hệ thống, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và pháp điển hóa hiện nay. Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc và các yếu tố nội sinh trong đời sống quốc tế.

Nguồn: https://firstreal.com.vn
Danh mục: Tài Chính

Related Posts

Mức phạt tiền thuế chậm nộp? Cách tính và cách hạch toán?

cách tính tiền chậm nộp thuế gtgt 2021

Bảng giá bảo dưỡng xe máy Honda mất bao nhiêu tiền – Giá mùa tết

thay phốt xe máy bao nhiêu tiền

Cách viết công văn xin giảm tiền thuê văn phòng chuẩn chỉnh từ A-Z

công văn xin miễn giảm tiền thuê mặt bằng

Mất tiền trong tài khoản ngay sau cuộc gọi của “nhân viên ngân hàng”

techcombank làm mất tiền của khách

Kết quả xổ số Tiền Giang hôm nay ngày 9 tháng 1 năm 2022

kqxs tiền giang 9/1/2022

Thay màn hình Oppo A5s giá bao nhiêu tiền? Bảng giá

thay màn hình oppo a5s hết bao nhiêu tiền