Trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam, phạt tiền và phạt tiền là một trong hai hình thức phạt có thể được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.
Xét về nội dung và giá trị tác động của hình phạt, hình phạt tiền tước đi một số quyền vật chất của người bị kết án và ảnh hưởng đến kinh tế (tình trạng tài sản) của người đó, qua đó đạt được mục đích phòng ngừa của hình phạt đặc biệt và chung.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 “Luật Hình sự”, đối với tội phạm nhẹ gây nguy hiểm cho trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng và an ninh trật tự thì phạt tiền là hình phạt chính. Một số tội danh khác theo quy định của BLHS. Đối với các tội phạm như tội phạm tham nhũng, tội phạm ma tuý thì hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung để đảm bảo mục đích của hình phạt.
Mức tiền phạt căn cứ vào mức độ nguy hiểm của tội phạm, có tính đến tình trạng tài sản của người phạm tội và biến động giá cả, nhưng mức tối thiểu là một triệu đồng. Mức độ nghiêm khắc của chế tài hình sự so với các loại chế tài hành chính, kinh tế.
Phân biệt cảnh cáo và phạt tiền theo luật hình sự
Xem Thêm : Giải hệ phương trình tuyến tính bằng phương pháp gauss
Để tiện cho độc giả, chúng tôi cung cấp bảng phân biệt sau:
– Đối với người vi phạm:
+ được áp dụng như một hình phạt:
1/ Người phạm tội nhẹ hơn là phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật này;
Xem Thêm : Mẫu thiết kế nhà 3 tầng mặt tiền 7m siêu đẹp
+ Là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham nhũng, ma túy hoặc tội phạm khác theo quy định của Bộ luật Hình sự.
– Đối với pháp nhân thương mại: là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có tính đến khả năng tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội.
Một năm chủ yếu là tiền phạt
Nếu hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì tùy theo hình phạt.
Nguồn: https://firstreal.com.vn
Danh mục: Tài Chính